Giải pháp cho tình trạng thiếu thông tin khoa học

24/Thg5/2007 15:38:43

Trong các tiêu chuẩn dùng để xếp hạng và đánh giá danh tiếng của các trường đại học, ngoài các tiêu chuẩn khoa bảng, hệ thống thư viện và tập san khoa học là một tiêu chuẩn rất quan trọng. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy các trường đại học “khoe” hệ thống thư viện của mình để cạnh tranh nhau thu hút sinh viên hay nghiên cứu sinh.

Vì thiếu thông tin, cho nên rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học chỉ đơn thuần lặp lại những gì người khác đã làm. Phần lớn các nghiên cứu y học ở trong nước mà người viết có dịp điểm qua đều lặp lại những gì những nhà nghiên cứu nước ngoài, thậm chí trong nước, đã làm từ hơn 20 năm về trước. Thiếu thông tin cũng có thể dẫn đến hao tổn ngân sách một cách không cần thiết. 

Giải pháp nào cho Việt Nam

Để khắc phục tình trạng thiếu thông tin ở nước ta, một tình trạng mà một nhà nghiên cứu mới đây cho rằng “không thể chấp nhận được”, nên chăng chúng ta cần áp dụng các biện pháp cụ thể như sau:

Thiết lập một cơ sở dữ liệu khoa học quốc gia. Hiện nay, nước ta có nhiều tập san khoa học, tuy chất lượng chưa cao, nhưng cũng cung cấp nhiều thông tin có ích và liên quan đến khoa học trong nước. Nhưng các thông tin này chưa được hệ thống hóa, và tình trạng này gây không ít khó khăn cho nhiều nhà nghiên cứu trẻ, kể cả nghiên cứu sinh, vì họ không truy tìm được tài liệu cần thiết.  . 


Hệ thống hóa cơ sở dữ liệu rất quan trọng. Ở Mỹ, Anh và một số nước khác, các thư viện quốc gia có chương trình hệ thống hóa toàn bộ các bài báo khoa học trong một cơ sở dữ liệu và đưa lên internet. Chẳng hạn như hệ thống dữ liệu Pubmed Central (PMC, www.pubmedcentral.nih.gov) của Mỹ có mục đích tập hợp và hệ thống hóa các bài báo khoa học từ các tập san khoa học trong và ngoài nước Mỹ. Với PMC, chúng ta có thể truy nhập những bài báo công bố từ đầu thế kỉ 20. Nước ta có thể học từ PMC để phát triển một cơ sỡ dữ liệu nội địa và qua đó giúp cho thế hệ sau trong nghiên cứu khoa học. 


Chủ động liên lạc với Chương trình OARE (Online Access to Research in the Environment)  và WHO để đảm bảo Việt Nam nằm trong danh sách của họ. Việc làm này đòi hỏi sự chủ động của một số tổ chức đại diện trong nước (chẳng hạn như Bộ Y tế hay Bộ KH&CN và Bộ Tài nguyên & Môi trường). Những thành viên chính trong Chương trình OARE là Kimberley Parker (Giám đốc thư viện Đại học Yale), Barbara Aronson (Giám đốc chương trình HINARI của WHO). 


Tích cực tham gia vào chương trình Open Access để đảm bảo các nhà khoa học trong nước có thể truy nhập vào các tập san do chương trình này quản lí. Chương trình Open Access có mục tiêu chính là tạo điều kiện cho các nhà khoa học trên khắp thế giới, kể cả ở các nước đang phát triển, có thể truy nhập thông tin khoa học miễn phí. Chương trình này đang được rất nhiều đại học trên thế giới ủng hộ và rất thành công, không chỉ trong xuất bản ấn phẩm khoa học mà cả lĩnh vực phần mềm máy tính, như ngôn ngữ R chẳng hạn. Chúng ta có thể tranh thủ mời các nhân vật chính trong Chương trình này (chẳng hạn như Leslie Chan, Barbara Kirsop, Stevan Harnard) đến Việt Nam để thảo luận về cách Việt Nam có thể tham gia hay đóng góp vào chương trình Open Access. 


Quan trọng hơn hết là mở rộng và đầu tư vào công nghệ thông tin và Internet. Phải nói ngay rằng hệ thống Internet tại các trung tâm nghiên cứu và đại học nước ta chưa hoàn chỉnh và trong tình trạng đó, tất cả các giải pháp trên sẽ không thể nào và không bao giờ thành hiện thực, bởi vì tất cả các giải pháp Open Access, OARE hay HINARI đều dựa vào Internet. Do đó, các trường đại học và trung tâm nghiên cứu cần phải trước hết kiện toàn hệ thống Internet và thư viện. Nếu chưa có hai cơ sở vật chất này, chúng ta chưa thể thảo luận gì được với các nhóm mà tôi vừa nêu.

(Theo Cổng TTKH)